Ngô KỷThư Không Niêm Gởi Tác Giả Lê Quế Lâmđăng bài trên mạng Việt Luận tại ÚcLittle Saigon ngày 31 tháng 5 năm 2015Kính thưa Tác giả Lê Quế Lâm,Hôm nay, nhân dịp đọc bài viết "Một Sự Sai Lầm" của Tác giả Trần Mộng Lâm có nội dung "đăng lời đính chính này với lời xin lỗi trân trọng gửi tới bà Hoàng Dược Thảo và những cộng tác viên, thân hữu của báo Sài Gòn Nhỏ," sự kiện này tạo nên nguồn cảm hứng và là động lực khiến cho tôi viết bức Thư Không Niêm này gởi tới Ông, mà lẽ ra theo dự định tôi muốn viết từ 2 tháng qua.Lý do là vào ngày 15 tháng 4 năm 2015, tôi có viết bài "Những Lời Nhắn Nhủ Sau Cùng Của Cố Tổng Thống Richard Nixon Đối Với Vấn Đề Việt Nam" http://baivietchongvietgian.blogspot. com/2015/05/nhung-loi-nhan- nhu-sau-cung-cua-co-tong.html, mà trong đó tôi có đính kèm theo 2 bài viết của tác giả Trọng Đạt, và bài
TỪ BUỔI HOÀNG HÔN CỦA ĐẤT NƯỚC ĐẾN BUỔI BÌNH MINH CỦA DÂN TỘC (30/4/75 - 2014) - PHẦN 2: THẮNG VÀ BẠI của tác giả Lê Quý Lâm, tức của Ông. Rất tiếc là 10 p[hút sau đó, tôi phát giác ra phần cuối của bài viết Ông có một số từ ngữ "không ổn," do đó tôi đã gởi lại bài viết lên các diễn đàn với lời xin lỗi độc giả như sau:
"Xin Thông Báo:Kính thưa Quý Đồng Hương,10 phút qua, tôi có chuyển lên một số Diễn Đàn bài viết này, có đính kèm bài của một tác giả đăng trên Website Việt Luận:Nhưng nay coi kỹ lại ở phần cuối cùng bài viết trên có vài câu không rõ ràng ý tứ, dễ gây ngộ nhận, do đó tôi xin rút bàiđó lại và xin thông báo đến quý đồng hương.Gởi bài lần này không còn bài viết đó nữa. Xin cáo lỗi cùng quý đồng hương. Cám ơn sự thông cảm của quý vị.KínhNgô Kỷ" (ngưng trích)Kính thưa Tác giả Lê Quế Lâm,Phải thừa nhận bài viết TỪ BUỔI HOÀNG HÔN CỦA ĐẤT NƯỚC ĐẾN BUỔI BÌNH MINH CỦA DÂN TỘC (30/4/75 - 2014) - PHẦN 2: THẮNG VÀ BẠI của Ông rất hữu ích và giá trị vì chứa khá nhiều tài liệu, chi tiêt, dữ kiện lịch sử, giúp cho độc giả thuận tiện khi cần tham khảo, chính vì nhận thấy tầm quan trọng và sự cần thiết của bài viết, nên tôi đã chuyển tiếp đến độc giả. Rất tiếc là tôi đã vô ý không đọc 419 chữ trong phần cuối bài viết của Ông, dù rằng tôi đã bỏ công ra đọc được 4,387 chữ trong bài viết dài 4,806 chữ, để rồi sau đó tôi tự trách chính mình sao lại cẩu thả và thiếu trách nhiệm như vậy. Âu đây cũng là bài học nhớ đời cho tôi.Tôi viết bức Thư Không Niêm này hoàn toàn trong tinh thần "hòa nhi bất đồng," tôi không có yêu cầu gì từ Ông cả, mà chủ đích duy nhất là tôi muốn nêu ra một số điểm trong bài viết của Ông mà theo tôi nó mang tính cách "mơ hồ," "áp đặt" và thiếu thuyết phục để Ông tùy nghi. Để đi thẳng vào vấn đề, tôi xin trích ra dưới đây nguyên văn hai đoạn trong phần cuối bài viết của Ông, và xin lưu ý đến phần chữ đỏ:(Trích)".......Kế hoạch hòa bình VN gắn liền với sự nghiệp chính trị của TT Nixon. Kế hoạch hòa bình này thất bại sự nghiệp chính trị của Nixon sẽ chấm dứt. Vì thế tháng 2/1974 Nixon chỉ thị Kissinger sang Paris gặp Lê Đức Thọ để yêu cầu Hà Nội hợp tác với Mỹ thúc đẩy hai bên MNVN ngồi lại với nhau, VNCH sẽ giao vùng 1 và 2 cho MTGP như tôi đã trình bày trong Phần I. Đây là cơ hội giúp Thiệu “trả đũa” hành động phản bội đồng minh của Mỹ. Ông không giao một nửa lãnh thổ miền Nam cho Mặt trận GP, mà rút quân để cho CSBV thôn tính. Lấy lý do đó, ông đổ lỗi Mỹ: “viện trợ nhiều thì giữ nhiều, viện trợ ít thì giữ ít”. Ông Thiệu đã lầm: QLVNCH đâu phải là lính đánh thuê cho Mỹ, nhưng ông đã góp phần giúp Hà Nội thống nhất đất nước.Gần đây trong Website của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xuất hiện nhiều bài tri ân những người lính VN đã ngã xuống vì chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988). Nhắc đến những chiến sĩ Hải quân VNCH hy sinh ở Hoàng Sa năm 1974, người viết không thể không nhắc đến 25 vạn chiến sĩ Quân Lực VNCH đã hy sinh trong cuộc chiến tự vệ từ năm 1960 đến 1975. Trong khi đó, một triệu binh sĩ Quân đội NDVN đã “sinh Bắc tử Nam” chỉ vì nghĩa vụ dân tộc, thống nhất đất nước. Họ đâu có ngờ “Việt Nam đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc, cho các nước cộng sản anh em” như lời tự hào của Tổng bí thư Lê Duẩn.Đến khi các nước cộng sản anh em tấn công VN ở biên giới Tây Nam, ở biên giới phía Bắc và cưỡng chiếm Trường Sa năm 1988, lúc đó người lính Quân Đội NDVN mới thực sự chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Họ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ khi bị các nước cộng sản tấn công. Trước đó, QLVNCH cũng đã chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ khi bị cộng sản tấn công. Do hoàn cảnh lịch sử chi phối, VNCH không thể thống nhất đất nước. Quân đội Nhân dân VN đã nối bước QLVNCH tiếp tục con đường chống CS bảo vệ đất nước. Đó là truyền thống hào hùng của dân tộc Việt." (ngưng trích)Kính thưa Tác giả Lê Quế Lâm,Tôi không chủ trương tranh luận với Ông vì tôi nghĩ Ông thừa kiến thức để hiểu điều tôi muốn nói, do đó sự giải thích dài dòng e ra không cần thiết. Chính vì vậy tôi chỉ cần thưa với Ông là quan những lời lẽ trong bài viết của Ông "...Đây là cơ hội giúp Thiệu “trả đũa” hành động phản bội đồng minh của Mỹ. Ông không giao một nửa lãnh thổ miền Nam cho Mặt trận GP, mà rút quân để cho CSBV thôn tính. Lấy lý do đó, ông đổ lỗi Mỹ: “viện trợ nhiều thì giữ nhiều, viện trợ ít thì giữ ít”. Ông Thiệu đã lầm: QLVNCH đâu phải là lính đánh thuê cho Mỹ, nhưng ông đã góp phần giúp Hà Nội thống nhất đất nước," Ông đã hồ đồ, hàm hồ và "chụp mũ" cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu làm tổn thương đến danh dự của ông ta, trong khi Ông không đưa ra một bằng chứng nào rõ ràng, cụ thể, thực tế, chính xác và trung thực cả, mà Ông chỉ dựa vào cảm tính, suy diễn và tưởng tượng mà thôi.Còn phần dưới thì Ông lại đi "ca ngợi" hết lời bọn lính cộng sản mà theo Ông chúng là "người lính Quân Đội NDVN." Theo tôi thì "một triệu binh sĩ Quân Đội NDVN" của Ông không bao giờ quan tâm đến dân tộc, trái lại bọn chúng chỉ biết xâm lăng miền Nam mà thôi. Làm sao mà "một triệu binh lính Quân Đội NDVN" của Ông lại không biết chúng là lính đánh thuê cho Liên Xô, cho Trung Quốc như lời bao che và biện bạch của Ông, được, vì khi bọn chúng vào Huế để tàn sát, chôn sống hơn 6 ngàn người dân vô tội trong dịp Tết Mậu Thân 1968, hay giật mình, pháo kích bừa bãi vào trường học, chùa chiền, nhà thờ, chợ búa dân lành, thì các vũ khí đó chúng có biết xuất xứ từ đâu cung cấp không hả Ông? Ông thật là lố bịch và vô lý khi Ông cố bào chữa và vinh danh cho "một triệu binh lính Quân Đội NDVN" của Ông rằng "...lúc đó người lính Quân Đội NDVN mới thực sự chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, Họ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ khi bị các nước cộng sản tấn công," đây quả là một điều "bưng bô" cộng sản hết sức dị hợm và lố bịch vô cùng, vì lính cộng sản có bao giờ đi bảo vệ tổ quốc đâu, bằng chứng là chúng đã không hề phản ứng và không hề chống trả khi bọn Tàu cộn chiếm đóng Tây Nguyên, chiếm đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Bằng chứng là vụ Tàu cộng đưa giàn khoan Hải Dương 981 (HD 981) vào khu vực Biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa vào ngày 1 tháng 5 năm 2014, rồi đến sự kiện đang xảy ra trước mắt, bọn Tàu cộng đang mở rộng bãi đá ngầm Chữ Thập và đang xây dựng các đảo nhân tạo tại Trường Sa, thế mà "một triệu binh lính Quân Đội NDVN" của Ông trốn đâu mất rồi hả Ông?Các tàu ngầm, tàu chiến và "một triệu binh lính Quân Đội NDVN" của Ông trốn đâu và chúng đã có hành động gì chống trả khi thấy chiếc tàu của Tàu cộng đâm chìm tàu đánh cá ĐNa 90152 của ngư dân Việt Nam mới xảy ra vào ngày 26 tháng 5 năm 2015 vừa qua hả Ông? Mời Ông bấm vào Link Youtube để nhìn cho tận mắt cảnh tượng này: https://www.facebook.com/vneconomy.vn/videos/ 577942462327162/ Tôi muốn hỏi Tác giả Lê Quế Lâm rằng Ông có mơ ngũ hay không khi Ông cho rằng "Quân đội Nhân dân VN đã nối bước QLVNCH tiếp tục con đường chống CS bảo vệ đất nước. Đó là truyền thống hào hùng của dân tộc Việt," một người "trí thưc" và "uyên bác như Ông mà viết vậy thì thật tình tôi xin chịu thua và "bó tay" mà thôi.Chỉ vắn tắt vài điều với tác giả Lê Quế Lâm vậy thôi chứ tôi chẳng có chủ trương tranh luận dài dòng, vì sự việc rõ ràng như 2 với 2 là 4 rồi, cãi cọ làm chi cho "mất lòng" nhau vô ích. Tôi chỉ buồn cho cái website Việt Luận bên Úc ( vietluan.com.au) trên danh ngĩa quảng cáo là "cơ quan ngôn luận của người Việt tự do" lại đăng tải cái bài viết này của tác giả Lê Quế Lâm mà không chịu đọc trước, và giả sử đăng lở rồi mà không lên tiếng minh xác hay đính chính thì quả là một điều đáng trách.Tôi chán ngấy phần đông chủ nhiệm, chủ bút, chủ nhân các cơ quan truyền thông, báo chí, website Việt ngữ lâu nay cứ hễ thấy tên tác giả bài viết hay Youtube có tước hiệu, danh phận lớn như luật sư, giáo sư, bình luận gia, nhạc sĩ, blogger v.v.. thì cứ nhắm mắt, nhắm mũi mà "lăng xê" mà chẳng cần biết là chúng viết cái gì, nói ra sao, lập trường như thế nào. Cứ hễ thấy bọn tai to mặt lớn "đánh rấm" là cứ khen thơm, cứ hễ tên tác giả là Nguyễn Ngọc Bích, Tạ Văn Tài, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Gia Kiểng, Ngô Nhân Dụng, Ngô Thanh Hải, Phan Quang Tuệ, Lê Xuân Khoa, Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Trúc Hồ, Điếu Cày, Nguyễn Văn Khanh, Nam Lộc v.v.. thì "hồ hởi" sụp lạy, xưng tụng, vinh danh bọn chúng như là "thánh" phun châu nhả ngọc, trong khi chúng chỉ là một bọn Việt gian, một lũ "khuyển mã," một phường xôi thịt phá thúi cộng đồng mà thôi,"Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý," tôi chỉ có bấy nhiêu lời muốn gởi đến Tác giả Lê Quế Lâm.Kính chào Ông.Ngô KỷEmail: ngokycali@gmail.comĐiện thoại: (714) 404-7022Hộp thư: PO.Box 836Garden Grove, Ca 92842PHỤ ĐÍNH:Một Sư Sai Lầm Tai Hại.Trần Mộng LâmTrong bài viết mới đây của tôi : «Nghĩ Về Hai Bản Án», tôi có viết là tờ báo Sài Gòn Nhỏ đã biến mất. Ngay sau khi bài viết xuất hiện, bà Hoàng Dược Thảo đã cho chúng tôi biết là trong khi chờ đợi bản án được xử lại, Sài Gòn Nhỏ vẫn xuất hiện đều đặn.Đây là một sơ sót rất đáng tiếc của người viết. Chúng tôi xin nhận khuyết điểm này, và ước mong tờ Sài Gòn Nhỏ vũng vàng vượt qua cơn sóng gió để đem tiếng nói của mình góp phần vào cuộc đấu tranh chung, trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay, gây ra bởi nạn Cộng Sản.Tôi vẫn nghĩ mãi về hai chữ «quả báo nhãn tiền», tôi vừa đưa lên mạng một sai lầm của người khác, nay lại đến phiên tôi sai lầm vì không kiểm chứng kỹ càng trước khi đặt bút , nên vội vã viết lá thư này, mong các vị thân hữu của tôi, những nơi tôi gửi bài, cho đăng lời đính chính này với lời xin lỗi trân trọng gửi tới bà Hoàng Dược Thảo và những cộng tác viên, thân hữu của báo Sài Gòn Nhỏ.Tôi rất có cảm tình với tờ báo này, chỉ vì một nguyên do : Tranh Đấu cho một «Việt Nam không Cộng Sản».Việt Nam không Cộng Sản là giấc mơ của những người tỵ nạn như chúng tôi. Và trong cuộc vạn lý trường chinh tiến tới mục tiêu đó, tờ báo Sài Gòn Nhỏ là người bạn đồng chí, đồng hành rất quý báu.Tôi xa Việt Nam như vậy là đã gần 40 năm.Gần 40 năm sống ở Hải Ngoại nhưng nhìn lại, không có một ngày nào tôi quên Việt Nam. Tôi nghĩ về đất nước tôi khi ăn, khi ngủ, khi đi làm việc, và ngay cả trong nhưng ngày tháng đi nghỉ hè. Tôi nghĩ rằng những người đang đọc những dòng chữ này, họ cũng như tôi mà thôi. Bạn có khi nào thôi nghĩ đến Việt Nam chưa ??Nhiều đêm mất ngủ, khi nhìn thấy đất nước đang mất dần vào tay người láng giềng khổng lồ là China, tôi giận mình là tại sao cứ ngu si, tự làm khổ mình vì những việc hoàn toàn ra khỏi tầm tay. Tại sao tôi không quên hẳn Việt Nam để tập trung vào cuộc sống mới, tận hưởng những gì có được sao gần 40 năm vất vả nơi xứ người, và may mắn không còn gì phải lo cho những đứa con đã trưởng thành ,tự lo được cho bản thân ??Nói thì dễ, nhưng quên Việt Nam là sự khó vô cùng. Tôi xa Việt Nam như vậy đã gần 40 năm, nhưng hai chữ Việt Nam chưa ra khõi não bộ tôi, dù chỉ 24 giờ. Bộ óc cứ hoạt động theo cái nhịp điệu của nó, và trong đêm tối, khi những việc của đời sống hàng ngày xếp lại rồi, chỉ còn Việt Nam, thì bộ óc nóng lên, giấc ngủ khó đến được. Sáng ra thức dậy đi làm, mệt nhoài.Bởi vậy có lúc tôi nghĩ rằng chỉ có những người ngu dại mới làm công việc mà chúng tôi đang làm, là tiếp tục cuộc chiến đấu bằng truyền thông.Trong một cuộc nói chuyện với phóng viên đài Radio Canada gần đây, cô phóng viên (gốc Việt Nam nhưng rất tiếc không nói đượctiếng Việt lưu loát) hỏi tôi là tại sao bây giờ hoàn cảnh của tôi đã ổn định rồi, lại cứ tiếp tục chống chính quyền hiện tại của Việt Nam mãi như vậy ?? Tôi khựng lại, không biết nói thế nào cho đúng ý mình , nhất là khi nói chuyện về Việt Nam, tôi nóng lên và chữ tây chữ u bay đi đâu mất tiêu. Dĩ nhiên nói là mình chống vì lý tưởng Tư Do thì quá dễ, nhưng nói như vậy có vẻ giáo điều, lý thuyết quá, ai nói cũng được. Điều tôi muốn nói cho cô hiểu, là tôi chống lại bọn họ chỉ vì họ đạo đức giả, lợi dụng sự yếu hèn của các người dân đen, và lợi dụng khí giới ngoại bang cung cấp , làm mưa, làm gió không coi ai vào đâu , để «vinh thân phì gia», và «bán nước» cho ngoại bang. Nếu tôi chỉ nghĩ đến bản thân thì những việc tôi làm rất ngu. Ngu ở chỗ tôi sẽ không thể đặt chân trở về du lịch tại Việt Nam. Ngu ở chỗ việc làm của tôi ngoài việc gây nguy hiểm cho bản thân, chẳng đem lại đồng xu cắc bạc nào, trái lại là khác.Điều tôi được an ủi, là những người như tôi không phải là ít.Tôi muốn nói đến Sài Gòn Nhỏ, có khi chỉ vì quá hăng say mà vấp ngã trong cuộc hành trình. Tôi rất vui khi biết rằng Sài Gòn nhỏ vẫn ra đều đặn, như trong điện thơ tôi nhận được mới đây. Chúc Sài Gòn Nhỏ mọi điều may mắn trong những ngày sắp tới.Trần Mộng LâmTỪ BUỔI HOÀNG HÔN CỦA ĐẤT NƯỚC ĐẾN BUỔI BÌNH MINH CỦA DÂN TỘC (30/4/75 - 2014) - PHẦN 2: THẮN Lê Quế LâmSau ngày 30/4/1975, trong cảnh màn đêm đen tối, những người ưu tư đến tiền đồ dân tộc luôn trăn trở vì vận nước. Không ngủ được vì mãi luận suy về lẽ thắng bại của cuộc chiến vừa kết thúc, ưu tư về sự tồn vong của đất nước ở ngày mai. Rồi nghĩ miên man đến qui luật bất di bất dịch của luật nhân quả. Thắng, bại đều do con người tạo ra, tạo nhân gì tất gặt quả nấy, không thể nào tránh được. Đó là tính tất yếu của lịch sử. Thức khuya mới thấy đêm dài. Đêm của đất nước kéo dài gần 40 năm. Mái tóc đầu hôm còn đen, đến rạng sáng đã bạc trắng, người viết mới thấy bình minh của Dân tộc bắt đầu ló dạng khi giới lãnh đạo ý thức được quyền lợi tối thượng của Dân tộc.A: HK phản bội hay giúp đồng minh chiến thắng trong hòa bình?Tháng 10/1949, Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đầu năm sau ông Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh cầu viện Mao giúp ông kháng chiến chống Pháp. Đây là cơ hội bằng vàng để Mao thu hồi lại phần đất An Nam mà ông ta cho rằng trước đây thuộc Trung Quốc, nhưng bị thực dân Pháp cưỡng đoạt hồi giữa thế kỷ 19. Sau khi giúp CSVN đánh bại Pháp, Mao sẽ dùng Đông Dương làm bàn đạp để chiếm lại các nước Đông Nam Á mà Mao cho rằng đã bị đế quốc Anh và Hòa Lan thôn tính.Bảo vệ các nước ĐNÁ khỏi bị TC xâm chiếm là mối quan tâm lớn của Mỹ hồi giữa thập niên 1950. Do đó, khi các cường quốc chuẩn bị nhóm họp ở Genève để chấm dứt chiến tranh Đông Dương, thì Ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles chuẩn bị thành lập Liên phòng ĐNÁ (SEATO). Như đã trình bày trong phần I, nhờ can dự vào chiến tranh VN để bảo vệ miền Nam tự do, đến đầu thập niên 1970 TC đã bị các đồng minh của HK bao vây chặt chẽ. Trong tình thế đó, HK tìm cách nâng cao vai trò của đất nước có dân số đông nhất thế giới, giúp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gia nhập LHQ, trở thành Hội viên thường trực Hội đồng Bảo An để mở đường cho việc bình thường hóa bang giao với cường quốc CS này. Để đáp lại, TC hậu thuẫn Mỹ kết thúc chiến tranh VN, đích thân TT Chu Ân Lai đến Hà Nội khuyến cáo Tổng bí thư Lê Duẩn nên tuân thủ HĐ Paris 1973.Mục tiêu bảo vệ ĐNÁ đã hoàn tất, HK rút lui sau khi HĐ Paris 1973 ra đời với sự tán đồng của một hội nghị quốc tế về VN, có sự hiện diện của cả 5 hội viên thường trực Hội đồng Bảo An và ông Tổng thư ký LHQ. Như vậy không thể nói HK đã phản bội đồng minh. Nhiều người còn nhắc đến những lá thư của TT Nixon luôn cam kết với TT Thiệu: “Nếu Hà Nội không tuân theo những điều kiện của hiệp định này thì tôi cương quyết sẽ có hành động trả đũa mau lẹ và ác liệt”. Nhưng từ khi hiệp định hòa bình được ký kết đến khi MN rơi vào tay CS không thấy HK có những hành động trả đũa mau lẹ và ác liệt. Như vậy, TT Nixon đã phản bội, dùng những lời lẽ trên để VNCH an tâm ký vào hiệp định, sau đó bán đứng MN tự do cho CS.Trong tác phẩm Hồ sơ mật Dinh Độc Lập, tác giả T/s Nguyễn Tiến Hưng đã tiết lộ hầu hết hơn 30 lá thư của TT Nixon gởi TT Thiệu từ bức thư đầu tiên đề ngày 31/12/1971 đến lá thư cuối cùng đề ngày 13/6/1973. Đọc các thư này sẽ thấy TT Nixon luôn yêu cầu TT Thiệu cùng với Mỹ tuân hành nghiêm chỉnh HĐ Paris 1973. Nếu Hà Nội không thi hành thì HK sẽ có những hành động quyết liệt để bảo vệ hòa bình. Nhưng rất tiếc có sự mâu thuẫn giữa Nixon và Thiệu về hòa bình và chiến tranh.Sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 quân số HK ở VN lên đến cao điểm 543 ngàn trong khi quân CSBV đã bị đánh bật sang bên kia biên giới Cam Bốt. Với một triệu quân, QLVNCH án ngữ khắp nơi để yểm trợ chương trình bình định, nền an ninh ở nông thôn được vãn hồi mau chóng, giúp chính phủ hoàn thành tốt đẹp chương trình “người cày có ruộng”. Trong tình thế sáng sủa đó, HK đứng ra trực tiếp đàm phán với Bắc Việt để giải quyết cuộc chiến ở miền Nam. Vấn đề này, theo TT Thiệu là phần vụ của chính phủ VNCH, nhưng HK lại ép chính phủ ông ngồi vào bàn thương thuyết, ngang hàng với Mặt trận GPMN. Chính vì vậy TT Thiệu cương quyết với “lập trường bốn không” chống đối việc ký kết một hiệp định -quyết định tương lai miền Nam, lại do HK và BV đạo diễn. Cả hai thế lực này đều tố cáo lẫn nhau là thủ phạm gây ra cuộc chiến xâm lược miền Nam. (*Bốn không: không thừa nhận cộng sản, không trung lập hóa miền Nam, không thành lập chính phủ liên hiệp, không nhượng đất cho cộng sản)TT Thiệu càng mất tin tưởng hơn khi thấy TT Nixon đi thăm Hoa Lục và chỉ 8 tháng sau HK kết thúc chiến tranh bằng HĐ Paris 1973. Ông nghĩ rằng sau khi bắt tay với TC, nắm được thị trường rộng lớn này, cũng như hiểm họa bành trướng xâm lược của Bắc Kinh không còn đáng ngại, thì miền Nam tự do không còn quan trọng đối với quyền lợi của HK. Từ đó ông lên án Mỹ phản bội đồng minh, ký HĐ Paris 1973 là để bán đứng miền Nam cho CS, vì thế ông chống đối hiệp định đến cùng.Trong khi đó, ai cũng thấy VNCH không có khả năng chiến thắng CS về mặt quân sự. MN tự do chỉ có thể giành được thắng lợi về mặt chính trị trong hòa bình. Vì thế, sự can thiệp và viện trợ của HK là nhằm mang lại hòa bình cho VN. Với hơn nửa triệu quân Mỹ cùng 50 ngàn quân đồng minh và gần một triệu quân VNCH, chiến đấu 3 năm liên tục mới áp lực được BV đến bàn đàm phán. Sau đó Hà Nội chủ trương “vừa đánh vừa đàm” kéo dài chiến tranh, để nhân dân Mỹ không còn nhẫn nại tiếp tục cuộc chiến. HK phải tái oanh tạc, rải mìn phong tỏa các thủy lộ dẫn vào các cảng lớn ở miền Bắc. Hà Nội mới chịu dự thảo hiệp định chấm dứt chiến tranh. Rồi sau đó, ngưng đàm phán, buộc Mỹ phải dùng B52 oanh tạc miền Bắc trong mùa Giáng sinh 1972, Hà Nội mới chấp nhận ký kết HĐ Paris 1973.Ngày 18/10/1972, Ts Kissinger đã mang bản dự thảo hiệp định Paris sang Sàigòn tham thảo với chính phủ VNCH cùng với lá thư của TT Nixon gởi TT Thiệu. Sau đây là vài đoạn chính của lá thư:“Như Ngài biết, suốt 4 năm dưới quyền tôi, HK đã đứng vững đằng sau chính phủ Ngài cùng nhân dân VNCH và ủng hộ sự đấu tranh dũng cảm của họ nhằm chống xâm lăng và bảo tồn quyền tự quyết về tương lai chính trị của mình… Tại bàn thương thuyết chúng tôi đã luôn luôn bám chặt lấy nguyên tắc là không bao giờ thương lượng với BV một giải pháp nào có thể định đoạt trước tương lai chính trị của MN. Chúng tôi trước sau vẫn triệt để tôn trọng lập trường là duy trì chính phủ dân cử và bảo đảm cho nhân dân tự do VN cơ hội quyết định tương lai mình…“Tôi tin chắc rằng sự thực thi (hiệp định ấy) sẽ cho phép Ngài và dân tộc Ngài có thể tự bảo vệ và quyết định vận mạng chính trị của MNVN. Riêng đối với tôi, thì điều khoản quan trọng nhất của hiệp định, ngoài những khía cạnh quân sự của nó, là chính phủ Ngài cùng quân lực và những định chế chính trị của VNCH sẽ còn nguyên vẹn sau khi cuộc ngưng bắn đã được tôn trọng. Trong thời kỳ tiếp theo đình chiến, Ngài có thể được hoàn toàn an tâm là chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp cho chính phủ Ngài sự yểm trợ đầy đủ nhất, kể cả viện trợ kinh tế và bất cứ viện trợ quân sự nào phù hợp với những điều khoản đình chiến của Hiệp định này…“Tất cả chúng ta đều công nhận rằng cuộc xung đột giờ đây sẽ chuyển đến một hình thức khác, một hình thức đấu tranh chính trị, nhưng tôi tin chắc với sự khôn ngoan và kiên trì, chính phủ Ngài cũng như nhân dân NVN sẽ đáp ứng được thử thách mới đó… Sau hết chúng tôi phải nói rằng, nếu như ta đã có thể mạo hiểm trong chiến tranh, thì tôi tin là ta cũng phải mạo hiểm trong hòa bình. Ý định của chúng tôi là quyết tâm tôn trọng các điều khoản trong các hiệp định và thỏa thuận ký kết với Hà Nội, và tôi biết rằng đó cũng là thái độ của chính phủ Ngài. Chúng tôi đòi hỏi phải có qua có lại, và đã cảnh giác cho cả họ lẫn các đồng minh của họ biết rõ như thế. Tôi xin cam kết với Ngài rằng bất cứ một sự bội tín nào về phía họ cũng sẽ bị chúng tôi lên án khắt khe nhất và nó sẽ có những hậu quả trầm trọng nhất”.TT Thiệu cực lực bác bỏ bản dự thảo hiệp định. Lúc đầu ông đòi sửa đổi 69 điểm trong bản dự thảo, nhưng sau mấy ngày thảo luận, ông chỉ còn đòi sửa đổi 23 điểm. Những đòi hỏi cứng rắn của ông Thiệu khiến Kissinger nổi nóng. Ông ta cho rằng đã thành công ở Bắc Kinh, ở Mạc Tư Khoa, ở Bá Lê mà bây giờ Thiệu lại trở thành “chướng ngại cho hòa bình”. Thiệu liền trách Kissinger “thông đồng với LX và TC bán đứng MNVN”.Kissinger biện minh: “làm sao Ngài có thể quan niệm được như vậy khi TT Nixon ngày 8/5 đã liều cả tương lai và chính trị của mình để giúp Ngài. Chúng tôi thảo luận với Xô Viết và TQ, đó là để áp lực với họ, để họ làm áp lực với Hà Nội. Chúng tôi thực tâm tin rằng bản hiệp định đề nghị này bảo tồn được nền tự do của MN, còn về chi tiết, chúng tôi đã không công nhận quyền BV được ở lại MN. Giá như chúng tôi muốn bán đứng quí vị, thì chắc đã có nhiều cách dễ dàng hơn để hoàn thành việc đó rồi”. (Ghi chú của người viết: Ngày 8/5/1972 Nixon ra lịnh tái oanh tạc, thả mìn xuống các thủy lộ ở miền Bắc. Hành động này có thể khiến Brezhnev đình chỉ cuộc họp thượng đỉnh với Nixon ngày 20/5/1972 để ký kết thỏa ước “hạn chế vũ khí tấn công chiến lược” tức SALT)Kissinger đã lưu lại Sàigòn 5 ngày để thuyết phục VNCH thỏa thuận bản dự thảo hiệp định, nhưng không thành công. Sau đó, TT Nixon gởi điện báo cho TT Phạm Văn Đồng biết vì sự chống đối của VNCH, bản dự thảo hiệp định sẽ được Kissinger và Lê Đức Thọ thảo luận lại sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ ngày 7/11/1972.Ngay sau khi tái đắc cử, Nixon gởi cho Thiệu bức thư đề ngày 18/11/1972. Trong thư Nixon xác định rõ với Thiệu: “Tôi muốn được cộng tác với Ngài và chính phủ Ngài trong nhiệm kỳ thứ hai của tôi để bảo vệ tự do tại MN trong thời bình”. Nixon đoan quyết với Thiệu là “hiệp định Paris sẽ bảo vệ nền độc lập của NVN và cho phép nhân dân VN quyết định lấy tương lai chính trị của mình”. Nixon đưa ra 2 con đường mà Thiệu có thể chọn: Một là cộng tác với HK để mang lại thắng lợi chính trị do những điều kiện của hiệp định mang đến. Hai là tiếp tục con đường riêng của Thiệu (không thi hành hiệp định), trong trường hợp này HK phải trù liệu các hành động khác mà Nixon tin chắc là sẽ thiệt hại cho quyền lợi của VNCH và của Mỹ.Ngày 17/12/1972 Nixon ra lịnh cho B52 tái oanh tạc miền Bắc và thả mìn xuống hải cảng Hải Phòng. Cùng ngày này Nixon cử tướng Haig sang Sàigòn trao cho Thiệu lá thư với lời lẽ được mô tả là gay gắt nhất từ trước đến nay. Nixon viết rằng “Đã đến lúc chúng ta phải biểu dương một mặt trận đoàn kết trong lúc thương lượng với kẻ địch, và Ngài phải quyết định ngay bây giờ là có muốn tiếp tục liên minh với chúng tôi hay không, hay Ngài muốn tôi đi tìm một thỏa hiệp riêng với kẻ địch, để chỉ phục vụ quyền lợi cho HK mà thôi”.Sau trận oanh tạc miền Bắc trong mùa Giáng sinh 1972, Hà Nội đồng ý trở lại bàn đàm phán ngày 8/1/1973. Trước đó ba ngày, Nixon lại gởi thư nhắc nhở Thiệu: “hậu quả trầm trọng nhất sẽ xảy ra nếu như chính phủ Ngài tự ý bác bỏ hiệp định và tách rời khỏi HK…Sự khước từ tiếp tay với chúng tôi của Ngài sẽ là một sự chuốc lấy thảm họa, nó sẽ phá hủy tất cả những gì mà chúng ta đã cùng nhau tranh đấu để đạt được trong 10 năm qua. Tôi nhắc lại ở đây những gì tôi thường viết cho Ngài: bảo đảm tốt nhất cho sự tồn tại của MNVN là sự đoàn kết của hai quốc gia chúng ta, sự đoàn kết sẽ bị nguy hại trầm trọng nếu Ngài cứ nhất định đi theo con đường hiện nay của Ngài. Nếu Ngài quyết định và tôi tin tưởng Ngài sẽ quyết định tiếp tay với chúng tôi, tôi xin bảo đảm với Ngài rằng tôi sẽ tiếp tục yểm trợ Ngài trong giai đoạn hậu chiến, và chúng tôi sẽ đáp ứng bằng toàn thể sức mạnh của HK nếu như BV vi phạm hiệp định. Một lần nữa tôi xin kết thúc thư này bằng lời kêu gọi Ngài hãy sát cánh với chúng tôi”.Ngày 14/1/1973, một lần nữa tướng Haig lại sang Sàigòn với lá thư của Nixon gởi Thiệu: “Tôi nhất quyết cho phê chuẩn hiệp định ngày 23/1 và sẽ ký kết vào ngày 27/1/1973 ở Paris. Tôi sẽ làm việc đó dù phải làm một mình. Trong trường hợp đó, tôi sẽ công khai tố cáo chính phủ của Ngài làm cản trở cho công cuộc vãn hồi hòa bình ở VN. Kết quả không tránh khỏi sẽ là cúp viện trợ quân sự và kinh tế ngay lập tức. Tuy nhiên tôi hy vọng rằng sau tất cả những gì cả hai quốc gia chúng ta đã cùng nhau chia sẻ và chịu đựng trong cuộc chiến này, chúng ta sẽ cùng đứng chung lại với nhau để tạo dựng và gặt hái kết quả của hòa bình”.Nhận được thư của Nixon, TT Thiệu vẫn khăng khăng đòi phải sửa đổi một số điểm trong hiệp định sắp ký. Haig đã chuyển những yêu sách của Thiệu mà ông mô tả là “cứng nhắc và không nhượng bộ” về Bạch Cung bằng đường vô tuyến. Nixon đã trả lời Thiệu: “Tự do và độc lập của nước VNCH vẫn luôn luôn là mục tiêu trọng đại trong chính sách ngoại giao HK. Tôi đã theo đuổi mục tiêu này trong suốt cuộc đời chính trị của tôi và trong 4 năm trời nay, tôi đã lãnh nhiều hậu quả trầm trọng trong nước cũng như ngoài nước vì theo đuổi những mục tiêu này. Chính vì để bảo vệ những mục tiêu chung của chúng ta mà tôi nhất quyết chọn đường lối hành động này. Tôi cả quyết rằng việc từ chối ký bản hiệp định này sẽ đưa đến việc cắt đứt mọi viện trợ cho VNCH. Nếu Ngài không chịu hợp tác, chính phủ VNCH sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về những hậu quả của nó”.Trong tuần lễ đầu sau khi hiệp định hòa bình được ký kết, để thực hiện điều 21 giúp BV hàn gắn vết thương chiến tranh, Nixon đã chuyển đến TT Phạm Văn Đồng hai lá thư đề nghị thành lập Ủy ban hỗn hợp kinh tế và đóng góp vào chương trình tái thiết nước VNDCCH với số tiền 3250 triệu đôla. Ngoài ngân khoản trên, chính quyền Nixon còn dự trù viện trợ thêm cho Hà Nội từ 1 tỷ đến 1,5 tỷ đôla thực phẩm và những nhu cầu khác.Về hai bên MNVN, từ ngày 19/3/1973 phái đoàn hai bên đã gặp nhau tại hội nghị La Celle Saint Cloud để sớm ký kết một một bản thỏa hiệp về những vấn đề nội bộ của MNVN. Phái đoàn VNCH chấp nhận cho MTGPMN tham gia vào đời sống chính trị MN bằng cách tham gia cuộc tổng tuyển cử trong vòng 2 hay 3 tháng sau khi quân BV rút khỏi MN, để nhân dân bầu tổng thống và Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc. Tổng thống và Hội đồng sẽ quyết định thể chế mới cho MNVN. Phái đoàn Cộng hòa MNVN bác bỏ đề nghị đó, họ không chịu thảo luận những vấn đề nào không được ghi trong văn bản ký kết. Họ đòi hai bên MNVN chọn người tham gia Hội đồng Quốc gia hòa giải dân tộc chớ không bầu. Hội đồng này sẽ tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến và soạn thảo hiến pháp cho MNVN. (Nguyễn Khắc Ngữ, Những ngày cuối cùng của VNCH…Tr.155)Từ ngày 17/5 đến 13/6/1973 theo đề nghị của HK, Kissinger và Lê Đức Thọ trở lại bàn họp ở Paris “để tìm cách cải thiện việc thi hành hiệp định Paris”. Trong thời gian này, Nixon đã gởi nhiều thư khuyến cáo Thiệu không nên vi phạm những thỏa hiệp đã ký và phàn nàn thái độ cứng rắn của phái đoàn VNCH ở hội nghị La Celle Saint Cloud. Để thuyết phục VNCH đến Paris ủng hộ bản thông báo chung Mỹ/Bắc Việt trong đó xác định quyết tâm của hai bên sẽ thi hành nghiêm chỉnh hiệp định, Nixon đã nhắc nhở Thiệu: “Tiến sĩ Kissinger đang ở Paris thương thuyết với BV để tìm cách cải thiện việc thi hành bản hiệp định. Tôi không cần nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của việc này trước công luận hiện nay. Như Ngài rõ, tôi đã công khai tuyên bố nhất quyết thi hành bản Hiệp định Paris với tất cả uy tín và thiện chí của HK. Ở HK sẽ không ai hiểu nổi vấn đề này nếu bây giờ sự thương thuyết bị thất bại vì những trở ngại ta có thể tránh được.“Tôi xin lập lại rằng ước vọng duy nhất của chúng tôi là muốn thấy bản hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh và thắt chặt tình liên đới với VNCH. Tôi không tin rằng Ngài muốn tôi phải ra trước nhân dân HK để giải thích sự bế tắc của cuộc thương thuyết hiện nay ở Paris. Điều này chắc chắn sẽ đưa tới sự cắt đứt ngân khoản cho Lào và Cam Bốt và cuối cùng là MNVN. Khi ở San Clemente tôi đã nói với Ngài về việc Quốc hội HK viện trợ đầy đủ sẽ khó khăn như thế nào. Tuy nhiên tôi cũng đã trình bày với Ngài rằng chúng tôi sẽ dồn mọi nỗ lực, không những xin đầy đủ viện trợ cho những nhu cầu hiện tại của VNCH mà còn yểm trợ cho những kế hoạch kinh tế dài hạn mà Ngài vừa công bố. Nỗ lực này đang tiến hành tốt đẹp và được đặt vào hàng ưu tiên đầu”.Trên đây là lá thư đề ngày 21/5/1973 của Nixon được phụ tá thứ trưởng ngoại giao William Suillivan mang sang Sàigòn để yêu cầu TT Thiệu chấp nhận bản tuyên bố chung Kissinger/LêĐứcThọ. Lần này sự chống đối của Thiệu còn mãnh liệt hơn hồi đầu năm 1973. Trong 3 tuần lễ từ cuối tháng 5/1973 đến đầu tháng 6/1973, Nixon đã gởi cho Thiệu 9 lá thư. Lúc đầu Nixon còn dùng lời lẽ nhẹ nhàng để khuyến dụ Thiệu, nhưng trước sự cứng rắn của Thiệu qua lời phát ngôn viên chính phủ “VNCH sẽ không nhượng bộ một ly nào nữa” Nixon bắt đầu cảnh cáo Thiệu: “Quyết định không ký vào bản tuyên cáo chung sẽ dẫn đến biến cố Quốc hội Mỹ ngăn cản việc dùng ngân khoản viện trợ cho những cuộc hành quân ở Đông Dương và sẽ gây ra thảm họa cho chính Ngài và chính phủ củaNgài. Trong chiều hướng dư luận hiện nay ở HK, tất cả những gì sai lầm, bất kể lý do nào, dường như đều qui lỗi cho chính phủ VNCH”.Cuối cùng với những lời lẽ vô cùng gay gắt, Nixon viết: “Nếu Ngài từ chối thì coi như Ngài từ khước toàn bộ chính sách của tôi vẫn hằng ủng hộ Ngài, quí chính phủ và quí quốc. Nếu Ngài chọn lựa đường lối tiêu cực này, thì chính Ngài đã vạch ra chính sách tương lai của HK đối với VN. Tôi sẽ bắt buộc chiều ý Quốc hội và công luận HK chỉ yểm trợ vừa đủ những nhu cầu có tính nhân đạo cho nhân dân MNVN. Chẳng cần nói dông dài, nỗ lực của chúng tôi trên toàn cõi Đông Dương sẽ chấm dứt. Tôi coi sự lựa chọn của Ngài như chống đối sự phán đoán và cam kết của chính bản thân tôi. Đây không còn là vấn đề của người đi thương thuyết hay của luật sư và chuyên viên. Đây là vấn đề giữa tôi và Ngài. Sự chọn lựa là do Ngài. Xin Ngài hiểu cho rằng tôi sẽ coi tất cả những hành động của Ngài tỉ như đề nghị giải thích, sửa đổi bản văn này nọ, trì hoãn, hay những xoay sở khác của Ngài, là một quyết định của Ngài cố tình chấm dứt mối bang giao hiện hữu giữa hai chính phủ HK và VNCH”.Đây là lá thư cuối cùng của TT Nixon gởi TT Thiệu đề ngày 13/6/1973.Kế hoạch hòa bình VN của Nixon kể như thất bại vì không được sự hợp tác của VNCH. Ngày 29/6/1973 Quốc hội Mỹ thông qua dự luật chuẩn chi viện trợ cho nước ngoài kèm theo một tu chính án quan trọng của hai Thượng nghị sĩ Clifford P.Case và Frank Church. Đạo luật qui định “không có một kinh phí nào có thể được chi cho việc yểm trợ trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động của Mỹ trên lãnh thổ, trên không hoặc ngoài bờ biển Cam Bốt, Lào, Bắc và Nam VN. Sau ngày 15/8/1973 không có kinh phí nào được cấp trước đây theo bất cứ đạo luật nào khác có thể được chi cho mục đích như vậy”. Hôm sau Nixon ký ban hành đạo luật này và quyết định chấm dứt ném bom Cam Bốt kể từ ngày 15/8/1973. Tu chính án Case-Church, theo nhận xét của tướng Westmoreland TMT Lục quân Mỹ: “đã hoàn toàn trói tay tổng thống đến nỗi ông ta chẳng có thể thực hiện được bất cứ một biện pháp phòng vệ tích cực nào ở ĐNÁ”. Theo ông, Quốc hội HK đã bật đèn xanh cho BV và là dấu hiệu bỏ rơi MNVN.Ngày 7/11/1973 Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật về Quyền chiến tranh: “Cấm tổng thống HK đưa Quân lực Mỹ đi chiến đấu ở nước ngoài hơn 60 ngày, nếu không được Quốc hội cho phép”. Thượng nghị sĩ Frank Church còn giải thích rõ: “Oanh tạc trở lại hay lấy bất cứ hành động gây chiến nào khác tại Đông Dương mà không được sự chấp thuận trước của Quốc hội sẽ là vi phạm luật pháp và tạo ra một hoàn cảnh có thể đưa tới sự truy tố”. Đạo luật này theo Nixon và Ford “đã đóng góp vào sự sụp đổ các quốc gia được HK yểm trợ trên bán đảo Đông Dương”. (Nguyễn Tiến Hưng, Hồ sơ mật Dinh Độc Lập,…Tr.472-474)Ngày 15/11/1973 Hạ viện đã ấn định mức viện trợ quân sự tối đa cho VNCH là 1126 triệu đôla so với 2270 triệu của tài khóa trước. Nhưng khi chung quyết, Quốc hội lại cắt giảm thêm chỉ còn 900 triệu.Trong thời điểm này, tháng 6/1973 TT Chu Ân Lai đến Hà Nội thuyết phục Lê Duẩn thi hành HĐ Paris 1973, để MNVN, Lào và Cam Bốt trong một thời gian dài. Lê Duẩn bác bỏ khuyến cáo trên, tuyên bố sẽ giải phóng MN, thống nhất đất nước. Vì thế TC chuẩn bị đánh chiếm đảo Hoàng Sa. Nếu không hành động ngay, khi CSVN thôn tính xong MN, Liên Xô sẽ chiếm giữ quần đảo chiến lược này, nối liền căn cứ hải quân ở Viễn Đông Vladivostok xuống biển Đông để bao vây TQ về mặt biển.Kế hoạch hòa bình VN gắn liền với sự nghiệp chính trị của TT Nixon. Kế hoạch hòa bình này thất bại sự nghiệp chính trị của Nixon sẽ chấm dứt. Vì thế tháng 2/1974 Nixon chỉ thị Kissinger sang Paris gặp Lê Đức Thọ để yêu cầu Hà Nội hợp tác với Mỹ thúc đẩy hai bên MNVN ngồi lại với nhau, VNCH sẽ giao vùng 1 và 2 cho MTGP như tôi đã trình bày trong Phần I. Đây là cơ hội giúp Thiệu “trả đũa” hành động phản bội đồng minh của Mỹ. Ông không giao một nửa lãnh thổ miền Nam cho Mặt trận GP, mà rút quân để cho CSBV thôn tính. Lấy lý do đó, ông đổ lỗi Mỹ: “viện trợ nhiều thì giữ nhiều, viện trợ ít thì giữ ít”. Ông Thiệu đã lầm: QLVNCH đâu phải là lính đánh thuê cho Mỹ, nhưng ông đã góp phần giúp Hà Nội thống nhất đất nước.Gần đây trong Website của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xuất hiện nhiều bài tri ân những người lính VN đã ngã xuống vì chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988). Nhắc đến những chiến sĩ Hải quân VNCH hy sinh ở Hoàng Sa năm 1974, người viết không thể không nhắc đến 25 vạn chiến sĩ Quân Lực VNCH đã hy sinh trong cuộc chiến tự vệ từ năm 1960 đến 1975. Trong khi đó, một triệu binh sĩ Quân đội NDVN đã “sinh Bắc tử Nam” chỉ vì nghĩa vụ dân tộc, thống nhất đất nước. Họ đâu có ngờ “Việt Nam đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc, cho các nước cộng sản anh em” như lời tự hào của Tổng bí thư Lê Duẩn.Đến khi các nước cộng sản anh em tấn công VN ở biên giới Tây Nam, ở biên giới phía Bắc và cưỡng chiếm Trường Sa năm 1988, lúc đó người lính Quân Đội NDVN mới thực sự chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Họ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ khi bị các nước cộng sản tấn công. Trước đó, QLVNCH cũng đã chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ khi bị cộng sản tấn công. Do hoàn cảnh lịch sử chi phối, VNCH không thể thống nhất đất nước. Quân đội Nhân dân VN đã nối bước QLVNCH tiếp tục con đường chống CS bảo vệ đất nước. Đó là truyền thống hào hùng của dân tộc Việt.Lê Quế Lâm
eva air vietnam
ReplyDeleteve may bay eva di my
korean air vn
mua ve may bay di my hang korea
đặt vé máy bay đi canada
Nhung Chuyen Di Cuoc Doi
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thuc Du Lich